Nghệ nhân Điểu K’Lung - người có công giữ giàng và truyền dạy cả kho tàng sử thi Tây Nguyên - sống trong hoàn cảnh thế này đây. Ảnh: Đ.B.T - Hội chứng “làm” thương hiệu cho di sản ngày một nhiều: Từ chỗ tụ họp hàng ngàn người hát quan họ, đến chỗ đề nghị có dàn nhạc cho hát xoan; rồi sàn diễn hóa không gian văn hóa cồng chiêng... Từ chỗ không giữ giàng những tinh hoa di sản gốc, người ta sẽ ít tôn trọng nghệ dân chúng gian hơn. Chứng cứ là trong bản dự thảo nghị định ấy, người ta đã áp những tiêu chuẩn rất không thực tiễn.
Ví dụ, phần nhiều nghệ nhân dân gian đều lớn tuổi, ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, vậy mà bắt người ta phải có tài liệu chứng minh đã hành nghề từ 15-25 năm, kèm theo những hình ảnh hoặc video trình diễn; rồi thì chỉ truy tặng danh hiệu cho những người đã mất cách thời kì xét tặng là 5 năm... Và cứ cái đà này thì có nhẽ cố nghệ nhân Hà Thị Cầu cũng “rớt” ra ngoài “barem” - cho dù việc truy tặng danh hiệu đối với bà cũng chả quan trọng nữa.
- Nhưng dù sao cũng phải xét theo một tiêu chí nào đó, chứ không thể cả một hội đồng ngồi xét theo cảm tính được, thưa ông?
- Nghệ nhân khác với các nghệ sĩ là không học ở trường lớp nào cả, mà phần nhiều là được truyền dạy, vậy thì lấy gì làm chứng cứ là người ta hành nghề từ khi nào? Hội Văn nghệ dân gian VN và nhiều người khác cho rằng, nên dựa vào danh sách các nghệ nhân đã được hội phung mà xét ở cấp quốc gia, nhưng họ không nghe. Sao tôi lại đề xuất thế ư? Vì trong suốt 12 năm qua, hội đã phong danh hiệu nghệ nhân cho 372 vị trên khắp cả nước mà có kiện cáo gì đâu. Ai mà chả biết bà Hà Thị Cầu giỏi nhất “món” hát xẩm; gia đình họ Điểu (Điểu K’lưt, Điểu Kâu, Điểu K’Lung ở Tây Nguyên) là kho sử thi... Vậy thì còn chần chừ gì nữa...?
Thực ra, nhiều người - trong đó có tôi - nhờ những nghệ nhân này mà trở thành cử nhân, tiến sĩ. Bởi làm sao tôi biết được hết cái hay, cái đẹp, cái tinh túy của các loại hình văn nghệ dân gian, thậm chí không có được cả một bài sử thi hoàn thiện để mà nghiên cứu, nếu như không có sự chỉ bảo của họ. Cho nên, phải coi việc trao tặng danh hiệu cho các nghệ nhân là một việc làm cần thiết để trả ơn với những người thầy của mình mới phải.
- Ông đánh giá thế nào về việc thực hiện Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ở VN trong 10 năm qua?
- Chúng tôi rất biết ơn UNESCO, vì chỉ từ khi những di sản văn hóa phi vật thể của ta được vinh danh, cộng đồng chợt bừng tỉnh về những vốn văn hóa vô giá của mình. Và cũng chính bởi “xét đến tầm quan yếu của di sản văn hóa phi vật thể như là động lực chính của đa dạng văn hóa và là một đảm bảo cho sự phát triển bền vững” nên các thành viên của UNESCO - trong đó có VN - đã cùng thỏa thuận công ước này.
Tuy nhiên hiện, những điều trong công ước có một phần chương trình hành động còn mới quá. Hai là các di sản phải đối diện với một sự đổi thay không có gì kìm hãm được. Môi trường diễn xướng của hồ hết các di sản văn hóa phi vật thể không còn nữa. Tuy nhiên, Hội Văn nghệ dân gian VN cũng đã khôi phục được môi trường diễn xướng cho chèo tàu, múa bài bông, hát cửa đình... Ở khu vực Hà Tây (cũ). Chúng ta chưa xác định được mối tương quan chặt chịa giữa di sản văn hóa phi vật thể với di sản văn hóa vật thể và di sản thiên nhiên, để từ đó có những chương trình hành động thống nhất..
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.