Tôi sẽ trở lại với chứng dẫn cụ thể ở phần tiếp theo
Tâm lý đó hình thành một phần do được hậu thuẫn bởi cách xưng hô. Hệ quả của cách xưng hô hiện thời là tinh thần về cái tôi, về cá nhân chủ nghĩa, về chủ thể tính bị ảnh hưởng. Ở cấp mẫu giáo, trước đây, ít ra là vào thời kỳ người viết bài này học mẫu giáo, cách đây hơn ba mươi năm, cách xưng hô chuẩn ở trường là « cô-em », « thầy-em ».
Khi học sinh xưng « tôi » và tía gọi học trò bằng « anh/chị » thì lúc đó, sự coi trọng của người dạy dành cho người học lớn hơn, vì tương tác giữa người dạy và người học là tương tác giữa các cá nhân bình đẳng, người dạy buộc phải nhớ rằng người học cũng là một chủ thể có vị thế riêng, bình đẳng với người dạy, có quyền phán xét người dạy.
Dù là tả quyền lực hay sự phục tùng của người nói, dù là biểu thị vai bề trên hay thái độ khiêm cung của người nói, thì các đại từ nhân xưng thứ bậc nhất không phải là « tôi » cũng đều góp phần làm mất tinh thần về cái tôi như một cá thể, một chủ thể duy nhất và bình đẳng với tuốt tuột thế giới còn lại.
(Theo TS Nguyễn Thị Từ Huy - Văn Hóa Nghệ An) [1]Vỡ đê, trong Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập II, nxb văn học 1993, tr.
Vậy mà sinh viên Việt Nam, trong môi trường đại học bây chừ, vẫn không được phép cảm nhận sự tôn trọng của xã hội đối với mình trong nhân cách là công dân, vẫn bị ấn sâu vào quan hệ gia đình trá hình do các thầy cô thiết lập nên khi gọi họ là « con ». Người xuân đường có thể sẽ hạn chế những hành động phản giáo dục nếu nghĩ rằng học sinh sinh viên sẽ phán xét mình.
Đáp xong Phú nghển cổ lên, nhìn về phía mẹ. Hiện thời chúng ta sẽ coi xét cách xưng hô trong hệ thống trường Việt Nam hiện hành. 158 [3]Sống mòn, nt, tr.
Trường là không gian công cộng, và là một không gian đặc biệt nơi diễn ra các hoạt động giáo dục. Hầu như đại từ tôi rất ít được dùng, trừ giữa nam giới với nhau và thường là trong trường hợp bằng tuổi nhau hoặc chênh lệch tuổi không đáng kể (họ có thể xưng hộ theo kiểu : ông-tôi, anh-tôi, cậu-tôi), nhưng nếu chênh lệch khoảng từ 5 tuổi trở lên là tức tốc đi vào quỹ đạo anh-em. Tôi sẽ ăn sau rốt.
315 [4]Vỡ đê, trong Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập II, nxb văn chương 1993, tr. Tôi lấy một ví dụ cụ thể có thực, đó là trường hợp GS Phùng Văn Tửu ở Khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
Còn cách xưng hô thân mật trong tiếng Việt ngay tức thì thiết lập tôn ti trật tự, người ta chỉ có thể gọi người nhiều tuổi hơn là « anh/chị » và xưng « em ». Trong lúc đó, bằng việc tới trường, đứa trẻ đã có thời cơ tham gia vào các mối quan hệ từng lớp, trường học giúp đứa trẻ hình thành tinh thần về mình trong nhân cách là thành viên của từng lớp.
Điều này không xảy ra trong môi trường đại học miền Nam trước 75, một số người đã từng tham gia vào hệ thống đại học ấy công nhận như vậy. Thầy-em, cô-em, anh-em, chị-em, bạn-mình ; thậm chí bác-cháu, chú-cháu…là lối xưng hô chủ đạo trong sinh hoạt hàng ngày ở dài, ở công sở.
Còn các đại từ khác ở thứ bậc nhất : « em », « anh », « chị », « cha », « mẹ », « con », « cháu », « chú », « bác »… tức tốc đưa người phát ngôn vào trong các mối quan hệ mang tính tôn ti, và xác lập ngay lập tức vị thế, thứ bực cữ hay tương quan quyền lực.
Việc xưng tôi ngày nay trở nên khó khăn đối với sinh viên hay giảng sư trẻ (thậm chí trong các cuộc họp các giảng viên trẻ cũng có khuynh hướng xưng « em » dù rằng trong cơ quan có nhiều đồng nghiệp còn trẻ hơn họ), đồng thời việc sinh viên xưng « tôi » gây khó chịu cho giảng sư, việc giảng sư trẻ xưng « tôi » gây khó chịu cho đồng nghiệp lớn tuổi. Dĩ nhiên chẳng thể phủ nhận được việc xưng hô không quyết định tư cách hay phẩm chất của người thầy.
Chưa bao giờ ông áp đặt quyền lực của người thầy cho sinh viên. Giới hạn cụ thể hơn, bài này chỉ xét đến lối xưng hô ở thứ bực nhất (người phát ngôn) và thứ bậc hai (người nhận phát ngôn) trong khuôn khổ trường.
Từ tiểu học đến đại học, ở dài quy định lối xưng hô « thầy-em », « cô-em ». Rất nhiều khả năng, một bố nghĩ suy và giảng dạy theo cách đó sẽ khó chịu khi nghe một sinh viên xưng « tôi » và nếu bị sinh viên chất vấn[5].
Ở nhiều đại học thuộc thị thành Hồ Chí Minh, đay nghiến gọi sinh viên bằng « con », và sinh viên cũng tự xưng « con ». Không rõ từ bao giờ thì « em » bị chuyển thành « con » (rất tiếc chúng tôi không phải là chuyên gia trong lĩnh vực này để có thân xác định một cách xác thực).
Nhưng trong chừng mực nào đó, việc thay đổi cách xưng hô sẽ góp phần hạn chế các vấn nạn khi mà từ phía học sinh, tinh thần về tính tự chủ, về sự bình đẳng, về giá trị cá nhân tăng lên ; và từ phía đay, sự quý trọng đối với học sinh sinh viên tăng lên. »[4] Việc các cá nhân xưng « tôi » trong giao dịch có thể đã là một việc khôn cùng thường ngày, và đã từng là một thói quen trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, ở cả giới có học lẫn giới bình dân, như được phản chiếu trong văn chương thời đó.
Nhưng trong thực tế thì nhiều đại diện tiêu biểu cho truyền thống tốt đẹp của giáo dục Việt Nam mà tôi biết lại là những người không bao giờ dùng lối xưng hô « thầy-em ». Dưới đây là một đôi dẫn chứng Xưng hô giữa một cặp người tình thuộc giới bình dân : Người người tình sụt sịt: Sao anh tệ thế, anh Mô? Tệ làm sao? Người con gái nói những gì nho nhỏ.
Đồng thời, một đặc điểm khác là người Việt đưa lối xưng hô trong gia đình vận dụng cho các quan hệ tầng lớp và công việc. Lâu dần người ta « ngượng » khi xưng tôi. Nhân vật văn học hồi đó xưng « tôi » phổ thông hơn nhân vật văn học hiện tại.
Khi gọi cô giáo là mẹ thì có nghĩa là quan hệ xã hội đã bị chuyển thành quan hệ gia đình. Sở dĩ người ta có thể làm những việc trái đạo đức, vi phạm pháp luật, là vì một mặt luật pháp không trừng phạt, nhưng mặt khác vì họ cũng không phải chịu áp lực của dư luận và sự phán xét của người khác.
Và điều này là một trong những căn do góp phần giảng giải tại sao từng lớp chúng ta bây chừ là một xã hội thiếu cá tính, thiếu sáng tạo, thiếu phong cách riêng. Giả như có chuyện xưng hô như vậy, thì cũng rơi vào bối cảnh lúc đứa trẻ giận dữ hoặc đùa nghịch, chứ không thể có trong một trường hợp thông thường như trường hợp được Vũ Trọng Phụng tả sau đây : « hốt nhiên có tiếng một đứa bé kêu lên với mẹ : -Bu ơi, tôi đau chân lắm, cái chỗ giẫm phải gai bữa qua bây chừ lại nhức lắm »[1] hội thoại này cho thấy việc xưng « tôi » là khôn xiết bình thường đối với đứa trẻ, là lối nói bình thường của nó.
Vì sao có hiện tượng giảng viên lên lớp với một bài giảng được soạn qua loa và nói lăng nhăng chuyện nọ xọ chuyện kia cho hết giờ ? Điều đó xảy ra khi và chỉ khi người cha nội nghĩ rằng mình có nói gì, giảng kiểu gì sinh viên cũng hài lòng vô điều kiện, không phán xét, bởi « nhất tự vi sư bán tự vi sư », mình đã đứng trên bục giảng thì mình là thầy, và đã là thầy thì trò phải chấp thuận vô điều kiện, phải ngồi mà nghe vô điều kiện.
Chỉ biết là thị khóc. Chưa bao giờ ông xưng « thầy » với sinh viên. Từ bậc mẫu giáo đến trung học cơ sở, tía xưng hô theo lối thân tình (tutoyer) với học sinh, nhưng học trò xưng hô theo lối kính trọng (vouvoyer) với cha.
Nội tôi có dám chê cô cái nết gì hay là đứng núi này trông núi nọ thì có giời vật chết! Nhưng tôi xem bói, mấy ông thầy cùng bảo tôi sát vợ. Khó có thể nghĩ rằng giờ đây có một đứa trẻ nào có thể xưng « tôi » với bác mẹ, tôi chưa từng gặp một trường hợp nào như thế trong thực tế.
? Cho chết! Xin cho ngay rằng chết tôi cũng bằng lòng. Bản thân tôi trong quá trình giảng dạy ở nhiều trường đại học, tôi coi trọng sinh viên đích thực, không xem họ chỉ là học trò để mình truyền dạy tri thức. Trò tôn trọng thầy mà thầy cũng phải quý trọng trò hiểu theo một nghĩa nào đấy; thầy biết coi trọng trò thì trò càng tôn trọng thầy hơn.
Huống chi đây lại là những sinh viên, những học viên cao học, những nghiên cứu sinh! Tôi thường nói với sinh viên văn học của tôi là chỉ nên xem bài giảng của tôi ở trên lớp như một tài liệu tham khảo, tức là sinh viên có thể phát huy những suy nghĩ độc lập của mình, có thể khác với nghĩ suy của tôi ở khía cạnh này nọ, và tôi quý trọng những nghĩ suy ấy, nhiều khi rất đúng đắn, góp phần bổ sung cho bài giảng của tôi.
Vì lúc đó cha sẽ nhìn học trò sinh viên như những cá thể ngang hàng với mình, không chỉ lên lớp để học mình mà họ còn có thể đánh giá năng lực và nhân cách của mình.
Thói quen đó cần được thiết lập lại. Ở đây chúng tôi lấy lấy thí dụ ở nước Pháp, là nơi chúng tôi có điều kiện tìm hiểu kỹ.
Cơ chế của một xã hội triệt tiêu ý thức bình đẳng và ý thức cá nhân chủ nghĩa góp phần hình thành và duy trì kiểu xưng hô này. Khi xưng ở thứ bực nhất thì bít tất đều xưng « tôi » (je). Và cùng với điều này, tinh thần cộng đồng đè nặng lên họ, đàn áp họ, tiếng nói cá nhân chủ nghĩa chỉ còn là một cái gì rất yếu ớt. Cô lấy tôi, nhỡ cô chết thì.
Còn học trò xưng « tôi » một cách đồng đẳng. Không chỉ vì truyền thống xưng hô « thầy-em » trong giáo dục được quan niệm như là một nét đẹp văn hóa, mà còn vì từng lớp ngày nay, do đặc thù của nó, muốn duy trì truyền thống đó, và muốn củng cố quan niệm đó.
Ở một số dân tộc, trong cách xưng hô, do thứ bực nhất (người phát ngôn) và thứ bậc hai (đối tượng nhận phát ngôn) chỉ có hai đại từ (chả hạn tiếng Anh : I, You ; tiếng Trung Quốc : Wo, Ni), nên xưng hô không đặt thành vấn đề trong dài.
Trẻ mỏ được gọi là « con » hay « em » ở trường mẫu giáo thì có gì khác nhau ? Khi học trò mẫu giáo bị gọi là « con », có tức là là quan hệ trường bị chuyển thành quan hệ gia đình. Nhiều phân tích đã chỉ ra rằng điều này dẫn đến những hệ quả tiêu cực. Nhưng có lý do gì mà một sinh viên xưng « tôi » lại thiếu quý trọng thầy hơn là một sinh viên xưng « em » ? Sâu xa thì đó có thể là do người thầy cảm thấy quyền lực của mình bị đe dọa.
Tuy nhiên, hiện tại việc thiết lập nếp xưng « tôi » ở sinh viên học trò, và lề thói hài lòng việc người học xưng « tôi » ở người dạy là một việc không dễ. Nếu so sánh các tác phẩm văn học viết trước cách mệnh và các tác phẩm đương thời, ta thấy, trong đối thoại các nhân vật xưng tôi với tần suất cao hơn nhiều.
Chỉ độc nhất vô nhị khi phát ngôn với đại từ « tôi » người phát ngôn mới có dịp củng cố và xây dựng tinh thần về cá nhân chủ nghĩa mình, tinh thần về chính mình như một cá thể đồng đẳng với những cá thể khác trong tầng lớp, mới giúp người nói có tinh thần xác lập vị thế độc nhất của chủ thể. Kể cả giữa các cặp yêu nhau, kể cả trong gia đình, vợ chồng xưng « tôi », con cái xưng « tôi » với ba má, rất thường gặp.
Ngày nay, hầu như những người trẻ rất khó xưng tôi trong sinh hoạt hàng ngày ở trường. Tuy nhiên, hiện tại, ở một số vùng của Việt Nam, đại từ « con » bị dùng cho đến tận cấp đại học. [2] Xưng hô giữa vợ chồng Thứ-Liên, thuộc giới có học : « -Mình buôn vải chung với chị San à ? -Vâng, tôi buôn những dạo trước kia, thôi đã lâu rồi »[3] Xưng hô giữa con cái và bác mẹ trong gia đình : « -Thôi chật chội thế, đẻ và chị cứ ăn trước đi.
Có thể tôi đẩy vấn đề đi quá xa khi đưa ra một giả thiết như thế này : nếu ở trường học, từ cấp III trở lên, sinh viên và học sinh xưng « tôi » với thầy cô, và thầy cô gọi học trò sinh viên là « anh », « chị », thì có thể các bợt giáo dục sẽ giảm xuống, chất lượng giáo dục sẽ tăng lên phần nào, trong trường hợp thay đổi cách xưng hô có thể làm thay đổi lối suy nghĩ của người dạy.
Nhiều thân phụ đích thực đáng trọng vẫn xưng « thầy » với học sinh, sinh viên. Thời xưa có câu "tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư", hễ có ba người cùng đi với nhau thì thế nào cũng có một người mà mình có thể học hỏi được.
144 [5]Bài « Sinh viên « ngượng miệng » xưng « tôi » » trên Tiền phong online. Và chưa từng gặp cả trong văn học đương thời của chúng ta, trong phạm vi những gì tôi đọc được. Trái lại, một nghiêm đường lên lớp với vốn hiểu biết phong phú, có chủ kiến riêng trong bài giảng, làm chủ vấn đề mà mình trình bày, có nghiên cứu riêng và quan điểm riêng của mình đối với lĩnh vực tri thức mà mình truyền bá, có một phương pháp làm việc dân chủ, thì không những không có khó chịu khi sinh viên xưng « tôi », mà sẽ còn khuyến khích sinh viên xưng « tôi », khuyến khích sinh viên chất vấn mình.
Thứ không nghe rõ. Mô nói to hơn: - Tôi có ý gì thì tôi chết bằng này tuổi. Trong khi đó, như trên đã nói, học sinh phổ quát ở Pháp đã được thầy cô gọi bằng « vous » một cách coi trọng.
Nếu so sánh với cách xưng hô thời trước cách mệnh còn được bảo lưu trong tác tác phẩm văn học, thì có nhẽ ta sẽ sửng sốt khi thấy rằng tinh thần cá nhân của con người thời đó rõ rệt hơn hiện giờ, mạnh mẽ hơn hiện nay. Vì lúc đó, cha không còn chỉ xem học sinh sinh viên như là những đứa trẻ bé bỏng, là đối tượng để mình bảo ban, dạy dỗ, phải phục tòng mình vô điều kiện.
Và tôi cũng không ảo tưởng rằng đổi thay cách xưng hô có thể giải quyết các vấn đề của dài (xưng hô chỉ là một trình bày của cấu trúc tinh thần của xã hội ; duy trì và củng cố lối xưng hô mang tính tôn ti thứ tự, lối xưng hô nhằm thiết lập quyền lực hay áp đặt sự phục tùng, đó là hệ quả của một cơ chế tầng lớp xóa bỏ quan hệ dân chủ, vì thế nghiên cứu về hiện tượng xưng hô phải đặt trong những nghiên cứu chung về văn hóa, chính trị, xã hội).
Trong giáo giới với nhau, xưng hô cũng đặt thành vấn đề, tạo ra nhiều khó khăn trong giao tiếp nghề. Nói « cô giáo như mẹ hiền » không có nghĩa và không bao giờ có nghĩa : « cô giáo là mẹ », bởi lẽ cô giáo thiết lập với học sinh mối quan hệ xã hội, một mối quan hệ khác hẳn với quan hệ gia đình.
Ít ra thì ở miền Bắc là như vậy : « Cô và các em », chứ không phải « cô và các con » như hiện tại. 107 [2]Sống mòn, trong Nam Cao tác phẩm tập II, nxb văn học, 1977, tr. Chúng ta nhớ lại những thảo luận xung quanh cuộc hội thảo do Đại học Hoa Sen tổ chức về việc xưng hô trong dài, để thấy rằng sự khó khăn trong việc sinh viên xưng « tôi » không phải chỉ là do sinh viên không có lề thói này, dẫn đến « ngượng miệng », mà là do (và đốn do) tâm lý của cha không chịu hài lòng hình thức xưng hô này, vì cảm thấy không được trọng.
Nhưng một khi ở hai ngôi này có hơn hai đại từ xưng hô, và các đại từ mang sắc thái khác nhau, thì xưng hô trở nên một vấn đề phải được quy chuẩn trong dài. Tôi luôn tự nhủ thầy tất nhiên có nhiều mặt hơn trò, nhưng trò cũng có những điểm mà thầy có thể học hỏi.
Các hoạt động ở trường học, các hành vi ứng xử giao thiệp ở dài, vì mục đích giáo dục của chúng, phải hướng tới đạt được sự chuẩn mực. Vì thế, sẽ chẳng có gì phải sửng sốt khi nghe GS Phùng Văn Tửu phát biểu, trong một bài phỏng vấn : « có nhẽ nên xem đây là mối quan hệ hai chiều: trò đối với thầy và thầy đối với trò. Quan hệ dân chủ, đồng đẳng giữa thầy và trò, tôi có nhiều dịp cảm nhận thấy rõ rệt ở nước ngoài.
Từ cấp phổ quát trung học đến đại học, xuân đường và học sinh, sinh viên cùng xưng hô theo lối kính trọng (vouvoyer).
Điều này góp phần làm mất tinh thần cá nhân, con người lúc nào cũng phải ghi nhớ thân phận của mình trong một quan hệ từng lớp bất đồng đẳng, một quan hệ mang tính thứ hạng trên-dưới, và cùng với nó là quan hệ mang tính quyền lực-phục tùng. Lưu ý rằng cách xưng hô thân tình (tutoyer) trong tiếng Pháp quy định sự đồng đẳng giữa người phát ngôn và người nhận phát ngôn.
Sở dĩ họ không nghĩ rằng họ bị học trò sinh viên phán xét, một phần là do họ tin rằng họ có thể điều khiển được người học, rằng người học phải phục tùng họ, và dù họ có làm gì thì người học cũng phải « tôn sư trọng đạo ».
Về phần mình, ông xưng « tôi ». Việc bị gọi bằng « con » ở trường mẫu giáo tước đi của đứa trẻ tinh thần rõ rệt về vai trò mới này của mình, tiếp tục duy trì cảm giác rằng nó vẫn ở trong quan hệ gia đình. Nếu trong dài không giữ được chuẩn thì đừng mong ngoài tầng lớp có chuẩn mực.
Khi tự xưng là « em », « con », « cháu » với một người không thuộc gia đình mình thì người nói bị áp đặt luôn cái tinh thần về thân phận thuộc đẳng cấp dưới của mình và bị áp đặt luôn cả cái tinh thần rằng do thân phận bé mọn mà mình phải phục tòng người hội thoại. » (An ninh thế giới, ngày 22/11/2010) tất nhiên việc thay đổi cách xưng hô không hề đơn giản, do các yếu tố tâm lý, văn hóa như và cấu trúc tinh thần của xã hội như đã nói ở trên.
Sinh viên là những người đã ở độ tuổi trưởng thành, đã là một công dân đúng nghĩa, về mặt pháp luật, có quyền tự quyết định, và phải chịu nghĩa vụ cá nhân. Nếu trong một lớp học có một sinh viên xưng « tôi » thì tía có thể khó chịu, nhưng nếu có đến 50% sinh viên xưng « tôi » câu chuyện sẽ khác, nghiêm đường sẽ không còn cảm thấy khó chịu nữa, và khi cả lớp đều xưng « tôi » thì thầy sẽ phải xem đó là chuyện hiển nhiên, và song song cũng xem việc sinh viên bình đẳng với mình trong tương quan từng lớp là hiển nhiên.
Người nói xưng « je » và gọi người hội thoại là « tu », dù ít tuổi hơn hay nhiều tuổi hơn, dù chức vụ cao hơn hay thấp hơn cũng thế, gọi như nhau và xưng như nhau. Như vậy học trò cấp III ở Pháp đã được cha gọi bằng « vous » một cách trọng. Chúng ta đều biết rằng tiếng Việt có một hệ thống đại từ nhân xưng khôn cùng phong phú, phức tạp, diễn đạt tính tôn ti ngôi thứ một cách chặt chịa, và phản ảnh một cách chi li các mối quan hệ.
Khi lên lớp, ông luôn gọi sinh viên bằng « anh », « chị », và buộc sinh viên khi phát biểu trên lớp phải xưng « tôi ». Không thể khác được. Khi nghĩ như vậy thì thầy giáo có thể sẽ phải tự hạn chế những hành động làm giảm uy tín của bản thân. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi giới hạn vấn đề ở lối xưng hô trong dài, là nơi, xin nhắc lại, đòi hỏi vơ đều phải trở thành chuẩn mực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.