Các quốc gia nội luật hóa những công ước đã dự vào hệ thống pháp luật của mình, trên cơ sở đó các quyền con người ở mỗi nhà nước mới được bảo vệ trên thực tế. Chả hạn, Điều 88, Bộ luật Hình sự về “Tội tuyên truyền chống quốc gia CHXHCN Việt Nam”, Điều 89, “ Tội quậy phá an ninh”… Sở dĩ quyền tự do ngôn luận, báo chí của các blogger trong “câu lạc bộ nhà báo tự do” không được nhà nước ta hài lòng vì trên trang mạng của họ đã có hàng trăm bài xuyên tạc, bôi nhọ, vu cáo chính sách của nhà nước.
W Friedrich Hegel 1770-1831) thì cho rằng: “Tự do là cái thế tất được nhận thức”. Khái niệm này là phương hướng cho sự phát triển của nhân loại. Tuốt các quốc gia, kể cả tổ chức chính trị lớn nhất hành tinh như Liên hợp quốc đều phải trọng quyền đó. Bây chừ trở lại vấn đề quyền con người, xem quyền con người (QCN) là gì? Vì sao có những người cho rằng, họ chỉ “thực hiện những quyền con người của mình, đã được pháp luật ghi nhận” cơ mà bị bắt bớ, xét xử? Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là tài sản chung của các dân tộc.
Vi phạm quy luật, tất yếu sẽ bị mất tự do. Với quyền này, các nhà nước có quyền vận dụng quơ các biện pháp, trong đó có xây dựng và thực thi luật pháp để bảo vệ chế độ của mình.
Sự tồn tại và phát triển của xã hội nói chung, điều chỉnh mối quan hệ từng lớp nói riêng không chỉ có luật pháp mà còn có những giá trị khác, trong đó có hệ thống giá trị đạo đức và văn hóa. Những giá trị này bao gồm: phẩm giá, tự do, bình đẳng, ý thức nhân đạo, khoan dung và trách nhiệm của mỗi người với cộng đồng.
Song song, những quyền (tự do) này phải chịu một số hạn chế của luật pháp. Trong Hiến pháp và hệ thống luật pháp Việt Nam, một số quyền công dân cũng bị hạn chế.
Trong chính trị, quy luật căn bản can hệ đến sự tồn tại, phát triển của một dân tộc trước hết là quyền dân tộc tự quyết. Phải chăng, đây mới là giá trị phân biệt loài người với phần còn lại của thế giới.
Chỉ những quyền tự do cơ bản này mới được luật pháp bảo hộ. Điều này thường được quy định theo luật (sau khi quy định về nội dung quyền - Đối với Hiến pháp), hoặc được quy định trong khái niệm tội nhân trong Bộ luật Hình sự.
Trong luật quốc tế về quyền con người, không có quy định nào về “quyền tự do” nói chung. Như vậy, ở đây tự do không chỉ là nhận thức mặc cả ở hành động. Những hành vi chống lại chế độ chính trị và quốc gia hiện hữu là vi phạm quy luật, tất yếu sẽ mất tự do.
Song song, Công ước này cũng khẳng định những quyền này có thể bị hạn chế “để bảo vệ an ninh nhà nước, thứ tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức tầng lớp hoặc các quyền và tự do của người khác” [3]. Có thể nói cho đến nay, cộng đồng quốc tế đã thỏa thuận với nhau những chuẩn chung về quyền con người. [3] - Trung tâm nghiên cứu quyền con người, “Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người”, HN, 2002, Tr 255.
[2] - trọng tâm nghiên cứu quyền con người, “Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người”, HN, 2002, Tr 249, 294. Nhận thức đúng đắn về tự do của cá nhân chẳng thể không nhận thức đúng quy luật này. Còn nhà triết học cận kim Hegel (G.
Chứng dẫn quyền con người nói chung mà không dẫn ra được những quyền đó được quy định như thế nào trong pháp luật quốc gia là thiếu tính thuyết phục, là không thể chấp thuận. Nhân đây cũng phải nói thêm rằng, loài người còn có giá trị khác, cao quý không kém tự do, đó là ý thức về nghĩa vụ của cá nhân với cộng đồng, với dân tộc và gia đình.
Tuy nhiên, theo Hegel, muốn có tự do thì đầu tiên phải nhận thức được cái thế tất, cái quy luật. Với nhân cách là một giá trị đạo đức, QCN là một giá trị từng lớp căn bản, vốn có của con người. Những chuẩn này được ghi trong “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người”, 1948[1], “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị”, 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế từng lớp và văn hóa”, 1966[2].
Nói cách khác, việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam đã được quy định trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, Luật quốc tế về quyền con người không trực tiếp điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và người dân ở mỗi quốc gia.
Với tư cách là một giá trị pháp lý, QCN là các quy định luật pháp (trong luật nhà nước và luật quốc tế) nhằm bảo vệ Nhân phẩm, các nhu cầu về vật chất, tinh thần của cả thảy mọi người và bổn phận của mỗi người đối với cộng đồng.
Theo nhà triết học Locke (John Locke 1632-1704) “Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ ngăn trở nào". Ở Việt Nam, các quyền con người đã được nội luật hóa trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Một số quyền con người gắn với khái niệm tự do hình thành những quyền tự do cơ bản.
Như vậy tự do ở đây chỉ là khả năng của con người. Vậy tự do là gì và trong đời sống thông thường, người ta phải hành động như thế nào cho hợp với quan niệm đúng đắn về tự do? Khái niệm tự do trong triết học được xem là một giá trị cao quý, cơ bản của nhân loại. Những hành vi nào đó, cho dù luật pháp không cấm hoặc chưa cấm, nhưng không phù hợp với đạo đức, không được tầng lớp ưng ý thì người ta không nên làm.
Nói một cách đơn giản: Không có quyền tự do cá nhân chủ nghĩa nào được phép đứng trên hoặc giày xéo lên chế độ chính trị, ích lợi của quốc gia. Người ta nhận thức được quy luật đến đâu thì hành động tự do được bảo đảm đến đấy. Trong “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị” 1966, các quyền tự do về tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo; về tự do ngôn luận, báo chí; về tự do ngụ, đi lại; Về tự do lập hội, họp hành được ghi nhận.
VỌNG ĐỨC [1] - Trung tâm nghiên cứu quyền con người, “Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người”, HN, 2002, Tr 28.
Quyền này bao gồm: Quyền xác lập chế độ chính trị, thể chế nhà nước và hệ thống luật pháp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.