Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

Chuyển giá FDI: mới nhất Quản lý yếu hay có động cơ?

Xuất khẩu "tỏa sáng" nhất ĐNA, Việt Nam nhận thuế tiền lẻ FDI chuyển giá, trốn thuế khai lỗ khủng?

 Cơ quan quản lý tiếp tay? 

 
ThS Bùi Ngọc Sơn - Trưởng phòng Kinh tế Quốc tế, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính trị Thế giới
PV:  
 - Qua tổng hợp số liệu của hơn 300 nghìn doanh nghiệp nộp tờ khai tạm tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2013, cho thấy doanh nghiệp FDI lỗ 68.203 tỷ đồng, tỷ lệ tăng lỗ cao nhất là 37,6% giữa lúc các nghi án chuyển giá vẫn đang làm nóng dư luận. Theo ông, đây có thể coi là cơ sở xác định các doanh nghiệp FDI đã tiến hành việc chuyển giá, trốn thuế hay không? 

 ThS Bùi Ngọc Sơn: - Những con số trên chẳng thể làm cơ sở hoàn toàn để xác định các doanh nghiệp FDI đã tiến hành chuyển giá, trốn thuế hay không vì điều này còn tùy thuộc vào tình hình kinh tế và nhiều nhân tố khác.

Thứ 2, phải có những chuyên gia phân tích theo dõi lĩnh vực một cách cẩn thận, không thể chỉ theo dõi con số vĩ mô để đưa đến kết luận.

Trong luật pháp phải có những định nghĩa, khái niệm rõ ràng, những tính toán cụ thể mới có thể quy nghĩa vụ. Nhưng cũng nên nhớ một điều thuế là điểm để tranh giành đầu tư nước ngoài, là một trong những điều kiện quan yếu ảnh hưởng đến quyết định đầu tư hay không đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài bên cạnh các điều kiện như nguồn lao động, các cơ sở hạ tầng khác.

Trong khi, về vấn đề nguồn nhân lực ở Việt Nam thời gian vừa qua tưởng là cần lao giá rẻ nhưng bản tính khi doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam lại phải đào tạo lại, mất thời kì nên thậm chí giá lao động còn đắt so với nhiều nước trong khu vực. Ngay cả chính sách thuế tưởng như là ưu đãi nhưng tham nhũng lớn, tính ra số tiền phải chi trả vẫn vậy.

 PV: -  Bên cạnh hành vi chuyển giá duyệt y đơn giá xây dựng do nhiều doanh nghiệp ngành xây dựng áp dụng như Keangnam Vina… một hình thức chuyển giá phê duyệt giá mua tài sản nhất thiết từ bên liên kết nước ngoài cũng được các doanh nghiệp FDI áp dụng triệt để. Tiêu biểu là Cty Hualon Corporation, 100% vốn từ Malaysia, Đài Loan-British Virgin Island đã thổi giá mua tài sản một mực là đống dây chuyền “phế thải” từ 400 nghìn USD lên 16 triệu USD, song song đơn vị này cũng khai lỗ trong suốt 20 năm hoạt động.  

 Như vậy, có thể đánh giá khả năng kiểm định của các cơ quan quản lý hệ trọng đến vấn đề này còn nhiều hạn chế không, Việt Nam đã 2 lần chịu thiệt khi vừa phải ưu đãi thuế cùng lúc trở thành nơi doanh nghiệp FDI đưa dây chuyền lạc hậu vào sinh sản ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, gây tác hại môi trường, sức khỏe của công nhân? 

 ThS Bùi Ngọc Sơn:  - Hành vi chuyển giá lộ liễu vẫn diễn ra đồng nghĩa với khả năng thẩm định của các cơ quan chức năng hạn chế hoặc đơn vị quản lý, giám sát đã tán thành vì có thể đã được thông lưng. Nếu xác định rõ ràng đây là vụ lớn có thể thuê trạng sư hoặc chuyên gia thẩm định để đưa ra án phạt nặng, không cố định phải nể nả các doanh nghiệp dạng này.

Theo tôi, pháp luật phải được chỉnh đốn để khi công nhận uổng sản xuất, khi phát hiện những vụ lớn phải hành động nếu không hành động tức là quá kém cỏi hoặc nếu không dám thi hành tức thị có động cơ đằng sau đó. Phải mở ra nhiều hướng nghi vấn đề điều tra.

Các cơ quan chức năng phải nắm được việc các doanh nghiệp mua thiết bị nguồn ngạch ở đâu, phải yêu cầu các doanh nghiệp khai báo rõ và nếu tính tổng cộng có thể thấy giá khai báo so với giá chuyên gia tính toán, những loại này đắt nhất là bao lăm để chứng tỏ là có sự báo khống hay không.

Công nghệ cao là một trong những lĩnh vực dễ nảy sinh chuyển giá, trốn thuế. Ảnh TNO

Khi không biết kiểm soát sẽ có nhiều thiệt thòi về mặt thu ngân sách. Ngoại giả, nếu khai mua máy móc hiện đại nhưng khi vào không kiểm soát được chất lượng máy, công nghệ cốt yếu là công nghệ lạc hậu, Việt Nam sẽ trở thành đống rác. Điều này khác hẳn việc chấp nhận dùng công nghệ thấp, giá thành dứt khoát phải thấp, giá thành thấp giá bán bình thường chứng tỏ lợi nhuận cao, và sẽ phải đóng thuế. Nghĩa là Việt Nam bằng lòng công nghệ lạc hậu, công nhân làm việc trong môi trường độc hại nhưng Chính phủ phải được thu.

Cái gì cũng phải có giá, chẳng thể ăn tất thảy theo kiểu vừa đổ thiết bị lạc hậu vào Việt Nam nhưng Chính phủ không thu được gì, công nhân phải làm việc trong môi trường độc hại và nền công nghệ nhà nước không có gì.

Tỉ dụ như ngành công nghiệp ô tô, nhìn lại 20 năm xây dựng phát triển, nội địa hóa không, kỹ năng của công nhân cũng chỉ dừng lại ở việc lắp ráp, không doanh nghiệp FDI nào chuyển giao công nghệ. Lý do dẫn đến hiện tượng vừa nêu là do trong hệ thống để nhiều sơ hở, nhiều chính sách đưa ra bất lợi như vấn đề tỷ giá trong khi người hàng xóm Trung Quốc đi trước Việt Nam về công nghệ và còn phá giá đồng bạc của họ.

Các doanh nghiệp FDI nhập hàng hóa của Trung Quốc rẻ hơn so với việc đầu tư sinh sản tại Việt Nam nên sẽ xuất hiện tình trạng doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam chỉ lập doanh nghiệp ra vẻ sản xuất nhưng lại nhập giá rẻ từ Trung Quốc và đóng mác Việt Nam.

Tuốt tuột những thứ này biến Việt Nam thành nơi tiêu thụ, thải loại công nghệ lạc hậu và cả rác của họ và ta không được hưởng gì nhiều; trong khi Trung Quốc thu gom được nhiều thứ như công nghệ, cựu, kỹ năng.

Hoặc như việc sinh sản một phụ tùng xe máy, rõ ràng ở Trung Quốc rất rẻ trong khi làm ở Việt Nam lỗ thì họ đến làm gì? Tổng công suất sinh sản khung xe máy ở Việt Nam kém xa với con số khung xe đăng ký để được hưởng thưởng nội địa hóa. Vụ việc này cho thấy số lượng lớn khung xe gọi là “nội địa hóa” đã được nhập lậu từ Trung Quốc. Như vậy các doanh nghiệp ăn lãi từ việc nhập lậu giá rẻ lại được hưởng “thưởng nội địa hóa”.

 thay đổi chế tài xử phạt 

 PV:   - Một trường hợp khác như Samsung, khi đầu tư vào Việt Nam đã được hưởng nhiều ưu đãi về thuế du nhập công nghệ, cơ sở hạ tầng thuận tiện, nhân công giá rẻ, thuế thu nhập doanh nghiệp… trong khi các doanh nghiệp nội hầu như không có, các doanh nghiệp nội cũng phải chịu thuế theo biểu mẫu.  

 dù rằng việc vấn đầu tư của các tập đoàn, tổng công ty lớn là cấp thiết nhưng phải chăng nên có sự công bằng để tạo tiện lợi cho các doanh nghiệp nội? Lo ngại về việc doanh nghiệp nội “chết” vì các doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở hay không, thưa ông? 

 ThS Bùi Ngọc Sơn:  - Tất nhiên, khi hài lòng cho một doanh nghiệp FDI vào sẽ giải quyết vấn đề việc làm cho người cần lao, thứ 2 là các dịch vụ về tài chính vận chuyển, thêm nữa là thu về thuế phí.

Đích lớn nhất của các quốc gia khi lôi cuốn đầu tư nước ngoài là phải có chuyển giao công nghệ, và cái lợi quan yếu hơn giai đoạn đầu là xây dựng ngành công nghiệp hỗ trợ nghĩa là khi được vào đây các doanh nghiệp FDI phải xây dựng một số lĩnh vực, mua sản phẩm của thị trường nội địa để Việt Nam phát triển tức thị sức lan tỏa.

Nếu trường hợp của Samsung, có thể cho hưởng ưu đãi nhưng họ có nhập những cung ứng từ các nhà thầu Việt Nam hay không, cần lao giải quyết được bao lăm, Chính phủ có thể ưng ý thu ít để họ được hưởng thuế nhưng phải hiểu cần lao, dịch vụ phải được lợi và đặc biệt phải chuyển giao công nghệ cho các công ty Việt Nam ở những phần nào.

Chung cuộc không giao, lại thành thử vào đây kiếm lời là chính, sau 10-20 năm họ ở đây Việt Nam lại không có gì ngoài việc trở thành nơi lắp ráp sẽ là thất bại. Còn nếu Việt Nam đã làm bít tất mọi việc họ vẫn không đưa công nghệ vào có thể họ đặt cơ sở chỗ khác hoặc chính sách của mình liên quan đến tỷ giá chẳng hạn làm người ta thấy rằng việc người ta vào Việt Nam sẽ không thể có lãi còn nếu tỷ giá đảm bảo nhập là lỗ thì kiên cố nó sẽ phải vào Việt Nam và tìm các nhà hiệp tác trong nước.

Hành 

    Quảng Cáo    

Công ty còn có sự cộng tác của các chuyên gia pháp lý giỏi về chuyên môn, uy tín và nhiều kinh nghiệm công tác tại một số cơ quan quản lý Nhà nước nên hoạt động hoạt động của Công ty khá đa dạng. Với đội ngũ Luật sư và các Cộng tác viên đông đảo, Công ty hoạt động trên nhiều lĩnh vực như: Hình sự, Dân sự, Kinh tế, Hành chính, Lao động, Đất đai, Hôn nhân và gia đình … Công ty cũng làm tư vấn cho khách hàng về các lĩnh vực như Thuế, Đầu tư nước ngoài, Thương mại, Tài chính, Ngân hàng… và đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ.

Những kết quả thu được trong quá trình hoạt động đã ghi nhận sự đóng góp củavan phong luat sutrong quá trình hoạt động, đặc biệt là hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.

 vi chuyển giá lộ liễu vẫn diễn ra đồng nghĩa với khả năng thẩm định hạn chế hoặc có sự tiếp tay của các cơ quan quản lý.

Trung Quốc đã từng thay đổi tỷ giá, cũng là hàng hóa như vậy người nước ngoài mang vào sản xuất thấy sinh sản một sản phẩm mang ra nước ngoài bán chỉ được 1 USD, mà không bán được vì Trung Quốc chỉ bán với giá chỉ 80 cent, có nghĩa nếu sản xuất ở Việt Nam bán thị trường là 1 USD còn nhập Trung Quốc là 80 cent, bán ở Việt Nam vẫn còn lãi thì nhập Trung Quốc chứ không cần phải sinh sản.

Còn Việt Nam nếu đổi thay tỷ giá như Trung Quốc thì toàn bộ doanh nghiệp quốc gia sẽ chết hết, vì các doanh nghiệp nhà nước không xuất khẩu mà chỉ bán trong nước, đợi mong vào nhập khẩu, khi họ nhập khẩu nguyên liệu là 1 USD, bỏ 20.000 đồng mua được nguyên liệu nhưng nâng lên 25.000 đồng mà bán trong nước sẽ lỗ.

Nhưng ngược lại các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ rất có lợi vì xuất khẩu không cần bán 1 USD mà có thể bán 80 cent, hàng cạnh tranh bán nhiều và bán thị trường rộng lớn và có thể mở rộng sinh sản thoải mái, cần lao sẽ tăng lên thậm chí tạo thành sức hút, các công ty nước ngoài cũng thích tham dự vào thị trường xuất khẩu của Việt Nam.

Giả dụ thế này chỉ bảo vệ doanh nghiệp nhập và bán ở Việt Nam nên bằng chứng là các doanh nghiệp vào Việt Nam bán hàng ở Việt Nam, không xuất, và nếu xuất phải được hưởng ưu đãi rất lớn mới xuất được.

Thị trường được mở mang, người dân và cả nền kinh tế mới phát triển vững bền còn bảo vệ các doanh nghiệp quốc gia làm ăn không hiệu quả như bây chừ sẽ khiến nền kinh tế bê trệ. Phải tìm ra hướng làm ăn và tụ hợp vào những đối tượng mang lợi nhiều cho nền kinh tế thay vì lập luận và giảng giải vai trò quan yếu của doanh nghiệp nhà nước, rồi rút cục sẽ hỏng, và cả nền kinh tế sẽ kiệt quệ vì điều đó.

Tôi nói thẳng, với chế độ tỷ ví hiện nay đừng bao giờ nghĩ đến việc xây dựng ngành công nghiệp hỗ trợ và suốt đời đi làm công, trong nhà có gì mang đi bán, đào mỏ đi bán.

 PV:  -  Theo ông, việc phát hiện hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp FDI sẽ có những khó khăn gì? Được biết tại một số nước trên thế giới trung bình một cuộc thanh tra chống chuyển giá kéo dài từ 18 tháng đến 24 tháng, thậm chí kéo dài đến 13 năm và không quốc gia nào khống chế vận hạn của một cuộc thanh tra về giá chuyển nhượng nhưng tại Việt Nam, thời gian thanh tra dài nhất theo Luật Thanh tra cũng chỉ được phép trong 70 ngày. Cơ quan quản lý Việt Nam đã không đánh giá được những khó khăn khi thanh soát hay tự tín trong thời gian ngắn có thể nhận biết hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp hoặc chỉ đưa ra con số 70 ngày cho có? 

 ThS Bùi Ngọc Sơn: - Việc phát hiện hành vi chuyển giá, về mặt khách quan, phải có mai dong kiểm chứng giá kê khai, vấn đề pháp lý của nước khác, pháp luật quốc tế, nguồn thông tin gián tiếp, trực tiếp đối xứng để kiểm chứng và thuộc tính pháp lý đến đâu để mang ra tòa án.

Khó khăn là vấn đề pháp lý tốn kém nhưng dù tốn vẫn phải làm mới ngăn chặn được và xác định ưng ý tốn khi tốn xong rồi phải xử nặng, tuốt luốt những uổng đó người thua cuộc đều phải chịu, quá trình này đòi hỏi ý chí đã làm phải làm tới nơi tới chốn.

Về mặt chủ quan phải có chuyên gia hiểu biết lĩnh vực, có kỹ năng và có nhân cách chẳng thể vì động cơ cá nhân chủ nghĩa hay tồn tại tư duy tham nhũng.

Đụng đến pháp luật là câu chuyện dài hơi, riêng việc đi thu thập thông tin, đủ các bằng cớ căn cứ luật pháp ở các nước thì 70 ngày không thể đủ được. Theo tôi cần phải xem lại cho đến khi nào xong vì có những vụ hàng năm hoặc lâu hơn nên hệ thống luật pháp phải làm thẳng thớm.

Đây là một trong những sơ hở của luật nên bản thân các doanh nghiệp nước ngoài đó nếu chỉ cần gây ra vài rắc rối trong quá trình thu thập thông báo, sẽ bị quá vận hạn và không xử lý tiếp được rốt cục không làm gì được họ.

 PV:   -hệ trọng đến các chế tài xử phạt, theo nhiều chuyên gia về thuế, chế tài xử phạt về chuyển giá cần nặng hơn, thay vì chỉ phạt như hành vi kê khai sai thuế hiện nay, ông có tán đồng với ý kiến này không? 

 Xin ông cho biết, Việt Nam cần làm gì để đấu kêu gọi sự đầu tư mạnh mẽ của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, vừa đảm bảo họ đóng thuế đầy đủ khi hoạt động sinh sản kinh dinh tại Việt Nam? 

 ThS Bùi Ngọc Sơn:  - chắc chắn phải có sự đổi thay chế tài xử phạt nhưng đồng thời Việt Nam cũng phải có Tòa án kinh tế đủ mạnh. Nên nghĩ đến hướng đào tạo chuyên gia mạnh vì Việt Nam đã hội nhập, với khối lượng quy mô của nền kinh tế lớn, khối lượng giao tế, chủng loại giao tế, xung đột giao du ngày càng lớn và phức tạp. Không có toàn án kinh tế mạnh, hệ thống pháp luật quy củ, chuyên gia được đào tạo bài bản đủ mạnh thì chẳng thể có năng lực để xử lý những việc này.

Khi một nước Tòa án kinh tế không có vai trò hoặc không hoạt động nhiều người ta dễ nghĩ quốc gia này tồn tại nhiều các hoạt động giao tiếp ngầm với Chính phủ và được thỏa thuận với Chính phủ.

Các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào bất kỳ đất nước nào sẽ xét đến phí họ bỏ ra và lợi nhuận họ có thể thu về. Nếu bắt họ đóng thuế đầy đủ phải có bằng chứng đề nghị họ đóng đúng nhưng quan trọng khi họ đóng phần đó phải có những canh tân hành chính còn nếu người ta chi cho rồi còn tiếp tục phải chi những khoản nằm ngoài dự trù họ sẽ bỏ.

Nếu thuế thấp hơn các nước khác mà các doanh nghiệp vẫn bỏ đi tức thị có thể nạn tham nhũng quá mức hoặc có thể cơ sở hạ tầng không bảo đảm hoặc nguồn nhân lực yếu kém.

Nếu sáng tỏ được vấn đề Tòa án kinh tế, Việt Nam hoàn toàn có thể xử phạt những doanh nghiệp FDI đã làm sai, và chắc chắn họ cũng sẵn sàng chấp thuận nhưng phải công bằng với quờ quạng các doanh nghiệp.

 Xin trân trọng cảm ơn ông! 

 Tâm An  (Thực hiện)

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.